Tôi sống ở đô thị lớn gần 14 năm, từ Sài Gòn, đến Bangkok, San Jose và nhiều mảnh thời gian ngắn ở các thành phố khác.
Tôi vác theo một balo, ngồi nghỉ ở sân bay hay bến xe, đợi một chiếc xe vào thành phố. Những đô thị nhanh chóng xoá nhoà chân dung của con người cũ, liên tục lấp vào chỗ trống bởi hàng triệu gương mặt mới. Tôi chỉ là một trong hàng triệu gương mặt đó, sẽ phai đi khi lời chuyện trò và những kỷ niệm không neo lại cùng với những người khác. Đến đô thị, lần đầu tôi nhận ra mình không phải là trung tâm của vũ trụ mình vẫn tưởng.
Sài Gòn cách nhà hơn 30km, đây là nơi “xa nhà” đầu tiên và xa nhất tôi từng đi đến khi 18 tuổi. Một thành phố với những chiếc xe tải container lừng lững mắc kẹt giữa xa lộ Hà Nội chờ đi qua cảng gần đó. Khói nhà máy xi măng màu trắng, chia bầu trời làm hai nửa. Thỉnh thoảng những xe máy chen vào điểm mù của container và tai nạn chết người làm tắc nghẽn con đường nhiều chục phút. Sự xa nhà bắt đầu ở tuổi 18, khi tôi quả quyết phải rời tổ ấm, phải sống cuộc đời mình khao khát, phải là ai đó không giống cha mẹ mình. Con đường đầu tiên có gương mặt của bạo lực mà sự bảo vệ gia đình không che chắn được.
Khi rón rén đi xa hơn nữa, Bangkok không hiện rõ nét vì trời đã nửa đêm. Sân bay nằm giữa những toà nhà thấp tầng màu hồng, màu vàng với cửa sổ và song sắt chi tiết chia tách phần trong toà nhà với thế giới từ đường tàu đang trào qua trước cửa kính. Vệt đường cao tốc dày và đậm đặc như nét mực quả quyết từ tâm trí người có ý tưởng tạo nên thành phố. Tôi mất phương hướng trên chuyến tàu đầu tiên (và sẽ tiếp tục đi lạc vài năm sau đó). Toà nhà bỏ hoang đầy bụi sẽ có một quán sân thượng sẽ trở thành bạn hữu nhiều năm tới. Trên gác cao quán đó, có bao nhiêu đôi mắt đã uống say toa tàu sẽ nhìn thấy tôi đứng lóng ngóng ở ga tàu không tìm được hướng về về? - Trong sự lạc lõng, tôi theo cầu thang bộ lên quầy gọi một ly bia, để được đứng ở góc nhìn của những khách nhậu. Có phải sự đi lạc đã dẫn tôi đến những lạ lùng êm dịu của Bangkok? Thành phố này có điểm dừng để nghỉ chân và thở ngay bên cạnh những con hẻm khiêu vũ khoả thân ồn ào nhất.
Nhiều năm sau, từ cửa sổ máy bay trên cao, San Jose (California) xếp ngăn nắp bên cạnh khu người vô gia cư sát sân bay, song song đường chạy đà hạ cánh. Những chiếc xe RV nghiêng ngả, xe đẩy siêu thị nhiều đồ đạc, người co cụm ngồi bên đống lửa, người dọn dẹp những bãi bờ của đồ đạc bên cạnh bụi cây. Đống lửa lem chút khói trắng vào đêm, đi qua cánh chiếc máy bay tôi ngồi. Những đồ vật bị ruồng bỏ bên cạnh thiên nhiên bị ruồng bỏ chen vai thích cánh với những người không chỗ lưu thân. Thế giới bên nửa kia địa cầu, cách 15 giờ giấc ngủ của mẹ tôi, cách xa tưởng tượng của những đêm trằn trọc.
Tôi phải ra đi. Đi về phía khác với hằng số của tổ ấm. Đi về phía không mang gương mặt thương yêu và thân quen. Đi về phía giấc mơ đầy sương mù, nơi tôi dẫm từng bước chân và không biết bầu trời có màu gì hay những khoang tàu ập về phía mình mang theo dòng người đang đưa mắt về phía nào của sự sống.
Ở phía hư vô đó, tôi vẽ cuộc sống mà mình ước mơ. Rất nhiều tưởng tượng. Như những đứa lang thang mang vác trên vai thật nhiều kỳ vọng tự tạo. Khi quá mệt, tôi bỗng nhận ra kỳ vọng là các tảng đá nhỏ tôi gom nhặt, bỏ vào bao tải và khuân trên vai. Tôi phải chậm chạp để bao đá xuống bên đường, đi xa bên ngoài biên giới rõ nét. Ước mơ của tôi là được tưởng tượng kia mà, phải không?
Nhiều nghi ngại hoá thành khẳng định
Hồi ở Sài Gòn, năm 21 tuổi, tại một căn phòng lợp tôn ọp ẹp bên cạnh đường đầy bụi rẽ vào một khu công nghiệp, tôi ướm hỏi người nhân viên môi giới về việc mình có thể làm.
Tờ 200 ngàn cuối cùng tuột khỏi tay tôi làm lệ phí, anh ta dắt tôi đến một trung tâm cần giáo viên dạy học. Tôi tính thử mỗi tháng đi dạy khi ấy trị giá 300 ngàn cho 16 ngày dạy. Anh ta và căn phòng “trung tâm” môi giới đã thu phí được bao nhiêu con người mua viễn tưởng tương lai từ những tờ giấy in "Cần tuyển người" ấn cẩu thả, photocopy cả trăm bản, hay viết tay ngoằn ngoèo? - Tôi sẽ được toà soạn trả tiền lại sau khi xong bài viết "nhập vai" đó. Nhưng những người gầy rộc, trẻ măng, đôi mắt chân thành khác sẽ trút những tờ 200 ngàn màu cam hồng xuống và rời đi, tiếp tục trải thân thể mình ra để tưởng tượng về những thu nhập mà họ bị cạo sạch nhiều hơn kiếm được. Sự bóc lột của đô thị như những cái phễu, bằng cách bán ước mơ nó đặt nhiều cái bẫy cạnh đường chờ người mơ ước giẫm vào, xả thân cho mất mát và không ngừng ước mơ.
Nhưng Sài Gòn mà, ước mơ có nghĩa là đủ bền gan để luôn ngóc đầu khỏi những cái bẫy như vậy. Vì khổ sở người ta trở nên dũng cảm phi thường. Một người đàn bà bán xoài tôi gặp đã dũng cảm đi 1500km xa nhà để bán xoài ở xứ sở của những bánh xe nghiến qua thành phố mỗi sớm. Một người đàn ông ném lốc gạch lên cao và cười phớ lớ bảo nghề này tai nạn lao động là hết đường em ơi, nhưng anh vẫn đang tiếp tục ném những lốc gạch bốn lỗ. Lũ gạch lố chố nhìn anh đếm từng ngàn bạc lẻ trả hết nợ cho gia đình ở quê. Một bà mẹ đã chở tôi đi hết con đường nắng gần 40 độ C, bảo chị nuôi con học đại học Bách Khoa, hai mẹ con cùng đi làm, rồi sẽ "học" xong đại học
Nhưng sự khổ sở ở Sài Gòn thường “nịnh” ống kính ghi hình hay thuận mùi trang viết như những món "súp gà" dung túng cho sự bóc lột và khốn cùng. Khi đối diện với sự dũng cảm hào sảng, tôi không kìm được và viết về họ với niềm ngưỡng mộ (những bài viết có hàng ngàn chia sẻ). Nhưng thứ ở lại trong tôi thường có mùi đắng nhiều năm sau đó. Phần cuối câu chuyện của những người dũng cảm tôi hề không biết. Phần sau cuộc đời của những trăm triệu học phí nhân lên mỗi kỳ tôi không can dự. Phần sau tai nạn lao động gãy xương sống nằm liệt giường sẽ không lên báo. Tôi không gặp được những con người hổng chân sẽ rơi xuống định mệnh mà họ không thể bơi ngược dòng. Tôi không kể hết phần truyện cổ tích hào sảng có mang theo cái đuôi của bi kịch lấp ló sau những đôi mắt và tiếng cười trong veo.
Tôi đã trở thành kẻ ghi chép những tích cực giả tạo. Những người đàn bà bán rau bên vỉa hè chung cư bán thứ tươi ngon của ngày (có khi an toàn hơn giá đóng bịch nhãn mác đầy đủ của Bách Hoá Xanh) cho những người dần có thu nhập tốt hơn, nhưng người trao bó rau lại bị đẩy xuống bần cùng khi chiếc xe trật tự đô thị đi ngang và ném cả sạp rau của họ lên xe chở về đồn.
Hàng ngàn người mặc áo xanh shipper giúp đô thị chuyển động và hoạt động kinh doanh mạnh mẽ phát triển. Nhưng người xe ôm không thể tìm được nhà vệ sinh công cộng, không có công viên bóng mát nghỉ trưa, không thể tìm được chỗ tìm nước uống miễn phí, bị phạt số tiền bằng cả nửa tháng thu nhập nếu họ không làm vừa mắt vui tai người nhận hàng. [Ở một thành phố khác, có người đã bị đánh chết khi cố đòi lại số tiền hàng mình thu hộ bị nợ].
Nhưng giữa sự hào sảng giả tạo (tự tôi vẽ) đó, một em bán bắp lại cười tươi thắm hỏi anh ship hàng anh có muốn em đổ nước đầy bình cho anh không, đi đường cho đỡ khát. Một anh đi xe vào đậu ở chung cư bảo cậu bé bán rổ khoai lang cân lên cho chú xem bao nhiêu, chú mua hết cho mày về nhà sớm một bữa. Sự hào sảng giả tạo được vá víu bằng sự thành thật bộc phát toả ra từ đôi mắt người nhìn nhau. À, họ thấy nhau.
Ở Sài Gòn, tôi đã gặp những người trẻ bị lừa vào những công ty nợ 6 tháng lương, và xoá sổ hồ sơ nhân viên ngay khi họ quay lưng rời khỏi xưởng làm việc. Những người sếp tìm cách đụng chạm thân thể hay gợi ý về “cơ hội”đổi chác bằng tình dục, lập lờ hứa hẹn rằng cơ thể em là cách thăng tiến nhanh hơn. Những người trẻ bước ra khỏi một công ty với sức khoẻ kiệt quệ vì làm việc thâu đêm nhiều tháng ròng, bị nợ lương, trở thành con nợ vì phải đi vay cho có tiền ăn uống, thuê nhà. Những bạn gái thoát khỏi “vòng tay” của nhóm đồng nghiệp thù địch, sờ soạng cơ thể trong thang máy. Những người bị tổn thương và rút lui mang theo thương tật tâm hồn và cơ thể vĩnh viễn. Sự mưu sinh ở đô thị lớn thường đồng nghĩa với bất chấp tổn thương người khác. Nơi bí quyết bóc lột, nợ lương, trả rẻ, tấn công được viết thành “bí kíp làm chủ”, "phương pháp làm giàu", nơi “thành công” có khi đồng nghĩa với việc dụ được thật nhiều người quen vào một cái tròng đa cấp hô hào đông vui.
Rời Sài Gòn đi, tôi mang theo lòng tốt là bài học đầu tiên nâng đỡ mình trong phần đời kế tiếp. Một ngày ở ngã tư Hàng Xanh khi chiếc xe máy phía sau tông phải tôi, hai người xe ôm đã đỡ tôi vào vỉa hè và chặn kẻ tông lại buộc anh ta phải xuống xe đi vào xem tôi có bị chấn thương không.
Nhưng một ngày khác trên mạng, anh tài xế lái xe Bee quỳ xuống bị hai vợ chồng đánh giữa đường Lê Duẩn (Quận 1) và hàng trăm người đứng nhìn không ai ngăn cản. Sự lẫn lộn kỳ lạ này khiến tôi không thể bi quan nhưng cũng đồng thời hồ nghi những ký ức đã tạo thành tuổi trẻ của mình.
Những dấu chân vô hình
Rất nhiều người sẽ gom góp các thành phố và tạo thành chiếc tổ tạm thời hay hoàn chỉnh. Có người tìm thấy mái nhà ở nơi không ai nói cùng tiếng nói. Người tìm thấy bạn đời trên hành trình viễn du. Người nhận ra hơi thở của thành phố xa lạ nào đó hợp với nhịp thở của mình.
Trong quyển “Invisible Cities” của Italo Calvino, Marco Polo đã kể về những thành phố ông gặp trên đường cho Hoàng đế Hốt Tất Liệt nghe, những thành phố mang giấc mơ, nơi con người mất ký ức, nơi những tưởng tượng bùng lên và tan biến trong sa mạc, nơi tuổi già sẽ chất đầy ân hận. Marco Polo kể bằng đôi mắt của kẻ lữ hành, đi đến thế giới mới mẻ bằng đôi mắt không can dự, rồi đứng phân vân giữa những ranh giới bên ngoài và ký ức trong đầu. Đôi khi thành phố là cả hai phần trộn lẫn vào nhau. Đôi khi thành phố nhấn chìm người kẻ chuyện vào phông nền.
Tôi ngồi xuống và thử viết về thành phố trong ký tưởng của mình bằng phương pháp của Italo Calvino:
“Em bị lôi khỏi chiếc xe bằng sắt bít bùng với khung cửa chỉ vài sợi ánh sáng len vào mắt. Ánh sáng tràn vào con ngươi em ở thành phố phía tây bên rìa ranh giới sa mạc, từ xa những tháp canh cao vút lên trời chằm chằm nhìn xuống sa mạc ngoài thành phố Cathaluka. Từ cửa buồng giam, em đếm được 200 chiếc nhà thùng container bằng sắt xếp thành hình sáu cạnh. Một mê cung với những đường thẳng em thấy lơ mơ, cũng từ những ô cửa song sắt nhiều con người ghé mắt nhìn ra, có lẽ họ cũng thấy em, những tù nhân của thành phố. Ở giữa đô thị hình chữ nhật giống nhau là toà tháp cao với ba tầng tháp như ba ngón tay hay ba cây nhang khổng lồ, sơn màu đỏ, nhọn hoắt vươn lên bầu trời. Tiếng xích sắt lanh canh dưới chân, ngoài kia tiếng chim cu rúc râm ran trên bầu trời nhưng em không thực sự thấy sải cánh tự do nào. Có thể đó là âm thanh của thành phố trong ký tưởng đã in hằn vào bốn bức tường trước mặt. Có thể em đã bị hoang tưởng vì nhớ thương tự do quá đỗi. Thành phố này không có mùi hương, em nhủ thầm, khi hít vào một ngụm trời đêm và uống hết những giọt sương rỏ xuống từ song sắt. Mùi của sắt. Mùi của những giấc mơ đã bị han gỉ."
Sau vài ngày viết bài thơ trên, tôi tự hỏi vì sao thành phố đầu tiên xuất hiện trong đầu mình lại là từ bên trong cửa nhà tù, một trải nghiệm tôi chưa hề biết?
Có một phụ nữ tôi từng gặp nhiều năm trước. Chị bước ra khỏi xe taxi, chống gậy, đi rất chậm lên cầu thang, và ngồi xuống cạnh tôi. Con người tự do soải bước trên đôi chân không còn tự do (đã gãy nhiều lần). Gương mặt của tự do đằng sau song sắt mà tôi không nhìn thấy. Hiểu biết về tự do chị trao cho tôi, một trải nghiệm lạ lùng chỉ có được khi con người đối diện con người, nhìn vào mắt chị, và cố gắng diễn tả vềnhững trừu tượng có thể không còn có thật nữa. Tôi thường giấu chị trong ký ức, tập làm hoà với sự tưởng tượng giới hạn của mình. Xong đâu đấy, khi tôi ngồi dậy và bước ra ngoài bờ biển, tôi nhận ra mình đã đi thật xa thế này, làm tất cả mọi thứ như thế này, vì một lời giải trong bài toán mà chị đã giúp tôi giải, trên chiếc nạng gỗ và sau song sắt của bài thơ.
“Bận sống”
Bangkok cho tôi nhiều hi vọng. Đó là thành phố có bàn tay vỗ vào vai mình, bảo mình yên tâm, yên tâm, mọi thứ sẽ ổn.
Hôm trước ở cửa ra ga tàu điện, một người đàn bà ăn mặc gọn gàng xách theo chiếc giỏ đan, gọi con chó hoang đang ngủ. Bà lấy chai nước đổ nước vào tô cho nó uống. Bà đổ thức ăn vào cái tô màu xanh của nó. Bà vuốt lưng con chó. Bà ném một món đồ chơi cho nó dí theo. Một lúc sau thì bà rời đi.
Vài tuần sau tôi có quay lại, con chó ở dưới ga tàu điện vẫn lững thững đi chơi. Ông xe ôm vừa ăn xúc xích vừa nhằn xuống cho nó một khúc. Chơi chán con chó quay lại cổng ga ngủ. Hôm đó có người đã làm cho nó một chiếc ổ có lót nhiều chăn ấm vì trời Bangkok hơi lạnh. Trong một khoảnh khắc kỳ lạ, tôi đã nghĩ mình giống chú chó ở dưới ga tàu điện này, đã được Bangkok dịu dàng cho một chỗ để sống. Người Bangkok thường nói chuyện rất nhỏ. Trên tàu họ không nói tiếng nào to. Trên xe bus họ rất im lặng. Nhưng họ cười rất thuận, họ làm việc cũng không nhanh nhảu gì lắm, họ sống cũng công nghiệp và đi công việc vội vàng như bao đô thị khác. Nhưng họ lập tức dừng lại và giúp đỡ ai đó đang cần giúp. Một bà lão bị mệt bên đường. Một con chó cần được vuốt ve. Một người nước ngoài đi lạc. Một người bạn tôi bảo dân Bangkok đi làm thảnh thơi lắm, hay nghỉ gần cuối tuần, ai cũng lấy hết phép nghỉ, tụi nó làm việc vậy chứ còn bận sống nữa, chứ không có làm việc điên cuồng kiếm tiền điên đảo.
"Bận sống" - thật là cụm từ ngọt ngào khác lạ. Nhưng để thảnh thơi vậy, người ta còn phải ngóc đầu lên mà thở được nữa mới dám "bận sống" chứ.
Trước khi rời Bangkok đi, thành phố này dạy tôi "bận sống", những buổi cuối tuần ra công viên nằm ngủ, ngắm trời, ăn bánh picnic cùng bạn, những buổi tối tan ca muộn ra về nhưng vẫn ra quán ăn ngồi gọi đồ ăn xong nói chuyện cười rúc rích tới khuya, những người ngồi đò ở bên kia sông sau giờ làm việc, đồng phục lao động mệt rã rời, đi lại trong sân chùa, mua đồ ăn bán ở các quầy trong chùa bên sông, rồi ra lán nghỉ ngồi chơi, ăn uống cùng nhau.
Ở San Jose, thành phố bắt đầu bằng một người nghiện đi từ bên kia đường và tay cầm cục gạch, tiến thẳng về phía tôi, miệng la hét những lời không rõ ràng. Có chiếc xe hơi dừng đèn đỏ ngay gần vị trí người đó sang đường. Anh ta dừng lại, vung viên gạch lên và ném vào kính xe của người đó. Từ bên kia đường, tôi quay đầu bỏ chạy.
Bài tập viết đầu tiên trong lớp Thạc sĩ là người bạn kể về hai năm sau khi bạn bị tấn công ở một con phố xinh đẹp chiều chủ nhật mà không ai giúp. Khi bạn chạy vào cửa hàng văn phòng phẩm để kêu cứu, nhân viên bán hàng đuổi bạn ra và rơi lại vào những cú đấm đá của kẻ tấn công.
Bài viết dài 50 trang kể về hai năm điều trị, phẫu thuật thẩm mỹ gương mặt bị đánh đến gãy nhiều xương. Những lần bạn lên cảnh sát lấy lời khai, nhận ra người tấn công bạn khi ấy đang say ma tuý, anh ta không thực sự biết đã đánh một cô gái đến thương tật. Tôi nhớ đến người cầm gạch qua đường khi đọc bài bạn viết. Những đô thị nhiều người nghiện, say thuốc, khốn cùng, giận dữ, căm thù tất cả, đầy vũ lực.
Tôi rời khỏi đô thị
ngay sau khi học xong, không thể quay trở về và sống như trước. Nhiều lần tôi tự hỏi có phải mình đã chui vào vỏ ốc để trốn cuộc sống dũng mãnh của tuổi trẻ? Có phải tôi đã trở thành kẻ hèn nhát? Có phải tôi đã thối lui trong cuộc mưu cầu hạnh phúc mà bộ phim mỹ "The Pursuit of Happiness" từng vẽ cho những khán giả mê chuyện diệu kỳ như tôi?
Khi viết bài này, tôi đang ở Bangkok vài tháng cùng bạn bè mình. Đi qua những ngã tư đèn khổng lồ, những phố đầy rẫy đèn và người. Tôi đã yêu Sài Gòn. Tôi rất yêu Bangkok. Tôi đã có những tình bạn đầy xúc động ở San Jose. Tôi là một sản phẩm của đô thị và đã được nhào nặn từ những chuyển động của thành phố. Sự rời bỏ này không phải quyết định “bỏ phố về quê” hay “bỏ phố về biển”, hay “bỏ phố về rừng” như những người bán sản phẩm giấc mơ được yên thân khỏi vòng xoáy đô thị.
Khi đang tạo hình các giấc mơ trong tôi, đô thị đã lẳng lặn nghiền nát chính tôi.
Vài tuần trước tôi xem một video Youtube kể về các bạn trẻ ở thành phố lớn ở Trung Quốc có thể mua một gói “nghỉ hưu”, một sáng kiến kinh doanh là bạn có thể đóng một số tiền (khoảng 500 USD/tháng tuỳ theo nơi) và đến sống ở một “cộng đồng hưu trí” gồm những người trẻ khác ở vùng nông thôn, để được trải nghiệm thời gian ngắn nghỉ ngơi không cần điên cuồng lao động không suy nghĩ.
Người trẻ "nghỉ hưu" có thể đánh cờ, trồng cây, làm mì sợi, học cách làm bánh, trồng hoa, ngủ dậy lúc nào tuỳ thích, không cần phải cắm đầu chạy trong cuộc đua lao động điên cuồng kiệt sức tại đô thị lớn.
Xem xong video, bạn tôi hỏi, "vậy mày nghĩ tụi nó kiếm 500 USD/tháng ở đâu ra để đi nghỉ hưu?" - À đây là một ảo giác khác, một ảo giác được "yên thân" khi dùng những vùng đệm che chắn cho mình khỏi sự vũ trang khốc liệt của đô thị đang nghiền nát họ.
Cảm giác lẫn lộn khi xem xong video đó là, liệu cuộc chạy trốn của tôi có thành công không? Những người như tôi và bạn bè, xả thân chạy lên những cao tốc cuối năm, chạy về phía tổ ấm, chạy về phía cha mẹ già đứng đợi, về những góc quê còn im lặng và mang nhiều ký ức ấm áp của tuổi bé thơ và được bên người mình thương quý.
Rất nhiều ảo giác là thật. Rất nhiều sự thật đã hoá thành ảo giác. Như thành phố đã mọc lên trong tim tôi và dần sụp đổ.
Bạn có thể đăng ký nhận bài viết mới qua email miễn phí hoặc qua kênh Telegram tôi sử dụng để thông báo có bài viết mới. Nếu bạn thấy email làm phiền, bạn có thể vào phần Setting của Substack và bỏ chọn subscribe.
Với bạn đọc đã đăng ký trả phí đọc substack năm qua và không muốn tiếp tục chi trả, bạn nhớ vào phần Setting > subscriptions > Tìm substack của tôi> và bỏ chọn mục trả phí để chọn về phần subscription miễn phí. Bạn vẫn sẽ đọc được các bài viết của tôi trên trang. Cảm ơn bạn vì một năm thật nhiều động viên.
Lần nào đọc bài của chị em cũng thấy mình thổn thức. Không rõ nữa, không biết em thấy mình trong câu chuyện chị viết, hay em tiếc quãng thời gian mình rời bỏ chữ nghĩa, cũng quan sát, cũng chiêm nghiệm, cũng muốn viết ra nhưng tự cho mình cái quyền theo đuổi áo cơm nên vứt xó mọi trải nghiệm qua một bên. Riết rồi hèn nhát chẳng dám viết. Cảm ơn chị vì đã biên, biên thiệt nhiều.
bài viết rất chạm chị ạ