Đọc về chiến tranh: "Người khách" được mời
Cách nhìn vừa không khoan nhượng, vừa từ chối lãng mạn hoá chiến tranh theo một chủ thuyết nào đó.
“Khi đậu mùa được xác định là căn bệnh từ phương Tây cần phải phòng tránh, người Hàn Quốc gọi căn bệnh là “mama” hoặc “sonnim”, từ thứ hai dịch ra là “người khách”. Với tâm thế này, tôi chọn tên “Người Khách” cho tập tiểu thuyết khám phá quá trình du nhập và tác động của Thiên Chúa Giáo và Chủ nghĩa Marxist đến với quốc gia, nơi cả hai thứ trên ban đầu đều xa lạ như bệnh đậu mùa.
“Khi đậu mùa lan thành dịch bệnh và quét qua cả nước, nhiều nghi thức thần quyền có tên “guest exorcism” [trừ tà từ người khách/kẻ xâm nhập] thường được tổ chức để chống lại những kẻ ngoại bang xâm nhập. [Tập truyện] Người Khách này cơ bản là nghi lễ trừ tà nhằm xoa dịu nỗi đau của người sống sót và an ủi vong linh những người đã bị hiến tế trên bàn thờ của chủ nghĩa đế quốc văn hoá nửa thế kỷ trước.” (1)
Trên đây là lời mở đầu của tiểu thuyết “Người Khách” của nhà văn người Hàn Quốc Hwang Sok-Yong.
Tác giả tuyên bố quyển sách là nghi thức trừ tà. Khi mở từng trang sách người đọc đi theo những nhân vật Hwang chọn, ở dạng ma hoặc dạng người, chứng kiến nghi lễ họ tiến hành, tham gia vào những phần khác nhau của nghi lễ, hi vọng rằng ở đâu đó, những khán giả nếu có can dự với quá khứ mà quyển sách viết sẽ tìm thấy chất liệu họ cần để “trừ tà”, cho nỗi đau của chiến tranh hai miền Nam Bắc Triều Tiên từ 1950 -1953.
Khi chọn đọc về chiến tranh để hiểu về cuộc chiến xảy ra ở Việt Nam, trên quê hương của mình, tôi chủ tâm chọn các quốc gia và không gian có điểm nào đó tương đồng với Việt Nam. Vì khác với các dòng văn học khác, văn học về chiến tranh bị tác động rất mạnh bởi phông nền của lịch sử. Ở đây, sự phân chia Nam - Bắc [Tư Bản - Cộng Sản] [Mỹ - Nga/Trung Quốc] đóng vai trò quan trọng trong việc khiến chủ thể tham chiến và cách nhà văn chọn điểm nhìn. Hàn Quốc và Việt Nam có một điểm chung là sự phân ly của ý thức hệ và bạo lực diễn ra ở khu vực giáp ranh chia cắt. Con người không dửng dưng đứng ngoài cỗ máy của lịch sử nghiền nát những người quanh họ, và khung cảnh lịch sử thường buộc họ chọn lựa góc nhìn dựa trên những dữ liệu này.
Trong “Người Khách”, nhân vật chính là linh mục Ryu Yosŏp. Ông và anh trai ông tên Ryu Yohan di cư đến Mỹ sống ở New Jersey và New York. Ông làm linh mục, anh trai ông làm thầy tư tế cho nhà thờ của ông. Hai người là cư dân điển hình của người Hàn Quốc di cư đến Mỹ sau Chiến tranh Nam - Bắc Triều Tiên: đa số theo Thiên Chúa Giáo, căm thù chủ nghĩa cộng sản, từng chiến đấu cho Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) hoặc làm việc với Mỹ.
Mở đầu tiểu thuyết, linh mục Yosop nói với anh trai ông sẽ về thăm lại làng Ch’ansaemgol, làng quê nơi họ lớn lên, qua sự kết nối của “Hội Đồng Khuyến khích Đoàn Tụ cho Những Gia đình Ly Tán” ở hai miền Triều Tiên, một sáng kiến giúp những người thân ở hai miền gặp lại sau hơn 40 năm chia cắt.
Người anh trai Yohan đáp:
“Em là… vậy sao. Anh đoán giờ em còn dây dưa cả với bọn cộng sản nữa nhỉ.” (2)
… “Em có nghĩ Chúa sẽ cho phép em quay lại Bắc Triều Tiên sao?” - anh trai hỏi.
“Nhờ ơn Chúa mà mọi chuyện diễn ra như vậy. Nhưng đừng quan tâm - Anh Trai à, có bao giờ anh nghĩ về vợ anh? Về Daniel?” (3)
“Chết hết rồi, chắc vậy. Nếu Cậu mà còn sống, ít nhất chắc ông cũng biết họ chôn chỗ nào. Em có nghĩ vậy không?”
Trục đối thoại của hai người anh em ruột xoay quanh Chúa và Cộng Sản. Hai “thế lực” này che lấp phần quan tâm tới đời sống cá nhân cho đến khi linh mục Yosop nhắc anh trai nhớ về “vợ” và “Daniel”- phần ruột thịt mà họ bị cắt rời khi rời khỏi làng và đến Mỹ. Kỷ niệm của họ không có gì nhiều ngoài những tranh luận rắc rối như vậy.
Vài ngày sau, Yohan qua đời bí ẩn khi ở nhà một mình.
Yosop mang theo những “hành trang” của ký ức, theo chân Hội Đồng Đoàn Tụ và nhiều người sống ở Los Angeles, New York, New Jersey theo chuyến hành hương về thăm Bắc Triều Tiên, như bước vào xứ sở kỳ lạ mà họ không còn nhớ đã tồn tại ra sao.
Chuyến đi của Yosop được mô tả giống như một chuyến đi thật mà chính nhà văn Hwang Sok-Yong trải qua khi ông từng làm nhà văn tường thuật giai đoạn hoà giải. Hwang cũng từng tìm đường đến Bắc Triều Tiên qua ngả Tokyo và Bắc Kinh. Có nhiều tư liệu từ chuyến đi đến từ những ghi chép ở các làng biên giới, khu vực giao tranh nặng nề và thảm khốc nhất. Khi quay trở về Hàn Quốc, ông bị kết tội và bắt giam. Sau 5 năm trong tù, Hwang được tổng thống Kim Dae-jung đặc xá trả tự do.
Tập truyện này, cũng như một số tập truyện khác của Hwang, viết rất khác so với các stereotype cứng nhắc khi nhìn về Bắc Triều Tiên (nghèo, nạn đói, cực đoan, bị thủ tiêu…). Thay vào đó, linh mục Yosop đi từ New Jersey trở về làng cũ ở Bắc Triều Tiên, được thấy lại những quãng đồi đã trọc, những phản chiếu trong ký ức về nơi từng là cánh đồng, là nhà thờ, là nơi gia đình ông sống sung túc, cho đến khi mọi thứ trở thành phần ồn ào lẫn lộn của bạo lực.
Các mảnh của ký ức lần lượt được ghép lại trong chuyến đi khi những thực thể vật lý như đường xá, mái nhà, ánh sáng tràn vào mắt và mùi đất đai tràn vào ngực Yosop.
Khi Yosop nhìn thấy một ngọn đồi, ông nhớ lại trong giai đoạn căng thẳng, gia đình ông vẫn rất giàu có, dư ăn dư để, trong khi ở làng đã có người đói. Một hôm, ông (lúc đó là đứa bé) nhìn thấy hai cô bé thiếu niên mặc đồ vệ binh cộng sản núp ở trên đồi. Một trong cô bé mang theo chiếc đàn violin [ ai đi làm cách mạng lại mang theo violin mà không phải súng như lời đồn về bọn quỷ cộng sản?]. Họ đói và lạnh. Họ bị lạc đơn vị. Yosop đã để yên hai cô bé sống trong hang, và mỗi khi có đồ ăn thì đem lên cho họ. Ba đứa trẻ không thực sự có lý tưởng gì, chỉ giúp nhau đi qua mùa đông sắp đến và không chết đói.
Vài ngày sau, khi anh trai Yohan phát hiện em trai mang cơm lên đồi, anh ta đi theo. Sau đó Yosop chỉ tìm thấy xác hai cô bé đã bị giết.
***
Trong chuyến đi, Yosop đã tìm lại được vợ của Yohan và Daniel. Họ không chết như anh trai ông nghĩ Bắc Triều Tiên đã giết chết họ. Chấp niệm và định kiến của anh trai dần được dãi bày bởi người em trai và được làm rõ vì có sự hội ngộ. Người vợ và con trai vẫn sống ở đây, nhưng cuộc sống vất vả mà không thể nói thành lời, như đứa cháu nói: “Chú có biết mọi người đã sống ra sao không, chỉ cố gắng sống từ ngày này qua ngày khác.”
“Chú không biết cháu có biết không, nhưng gia đình ta là gia đình Thiên Chúa Giáo nhiều thế hệ. Cháu cũng đã được rửa tội từ lúc còn bé. Cha cháu là thầy tế, và chú giờ là linh mục. Đức tin của ta có rất nhiều thứ xung đột với lý tưởng của Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân [Triều Tiên].”
“Không, không, cháu không thấy phiền gì với tôn giáo cả - đó chỉ là tàn tích trong ngày tăm tối cũ, những trò mê tín dị đoan và những thứ như vậy. Cháu không quan tâm các người là quân phản cách mạng hay là lũ tội phạm - nhưng giết người thì sao? Tại sao các người giết người?”
“Thời đó mọi người thù ghét và giết nhau. Giờ ngay cả những người sống sót cũng chết dần, lần lượt rời bỏ thế giới này. Nếu chúng ta không thể tìm ra cách nào để tha thứ cho nhau, thì không ai trong chúngt a có thể gặp lại nhau nữa.” (4)
Những đối thoại “vênh” kiểu này xuất hiện cực nhiều trong sách. Đó không chỉ là đối kháng của một người cả đời sống trong làng Bắc Triều Tiên với một người đã đi nửa vòng trái đất đến Mỹ. Đó là các đối thoại cố gắng nhìn thấy nhiều phần trong ký ức của mỗi người mà người kia không có, hoặc từ chối thừa nhận. Câu chuyện không chỉ dừng ở các chi tiết trong phông nền lịch sử như làng bị bên nào tấn công, mấy ngàn người chết, mà nó được mổ xẻ đến từng chi tiết cụ thể.
Trong bảo tàng ở Bắc Triều Tiên, Yosop đọc về cuộc thảm sát, được mô tả con số viết theo kiểu tuyên truyền là “hơn 600 người” và con số tổng hợp là “1,530 người” mà họ bị đốt chết trong hầm tránh bom. Sau đó ông được nghe những “nhân chứng” kể theo kiểu học thuộc về trải nghiệm của họ, thấy đống xác bị đốt ra sao, các phụ nữ bị nhốt với trẻ em trong hầm cố gắng hứng từng hạt nước từ trên nắp hầm cho con uống, mà không biết thứ chất lỏng vừa đổ xuống là xăng. Câu chuyện tiếp diễn trong những ký ức “học thuộc” như vậy. Nhưng Yosop không đi nửa vòng trái đất chỉ để nghe chuyện tuyên truyền, ông về để “hội ngộ” với cuộc thảm sát có thật mà ông đã trải qua.
Vậy ai đốt chết mấy ngàn người làng?
Những “con ma” theo chân Yosop trong suốt chuyến đi, anh trai, cậu đã chết, hàng xóm, bạn cùng tuổi, được kể trong cấu trúc phức tạp của những định chế chính trị mới xuất hiện mang những cái tên có mùi lý tưởng như “Nước Chúa” và “Đảng Dân chủ Chosŏn ”, “Lệnh Cải Cách Ruộng Đất”, “Hội Đồng Nhân ân Tối Cao”, “Tuổi Trẻ Thiên Chúa Giáo”, “kẻ thù của Nhân Dân”… từng chuyển biến trong từng nhân vật cá nhân được viết rất riêng tư và rõ nét. Họ không phải là nhân vật vô danh, mà có đầy đủ chân dung.
Ví dụ như một nhân vật cách mạng tự xưng là đồng chí Pak Illang [tên cũ là Ichiro]. Yosop nhớ anh ta rất rõ vì anh ta là một nông dân làm công cho ruộng nhà ông và có một mùa đông họ thường ngủ trong lều gần đống lửa. Yosop và Ichiro gần như trở thành anh em. Ichiro sống trong rừng với cha mẹ. Cha anh bị cây đè chết khi đi làm nông dân chặt cây cho một người chủ hợp tác với Nhật. Mẹ anh phải bỏ nhà đi làm thuê. Anh ở với bà nội, đi mót thức ăn trên những cánh đồng đã thu hoạch. Họ trồng thêm khoai sắn trên đất của chủ và được hưởng 1/2 hoa lợi. Khi Ichiro 18 tuổi anh lấy vợ. Ngay sau đó, anh vào tù vì lúc đó “nghề” đi mót khoai bị cho là tội phạm. Khi Ichiro ra tù, bà nội đã chết và vợ anh biến mất.
Ngay đến khi đến làm thuê ở nhà Yosop, số phận Ichiro vẫn là đứa ở. Mùa đông ở Hàn Quốc nhưng Ichiro chưa bao giờ có chăn đắp, trong khi cậu phải làm ruộng và phục vụ Yosop và những người anh em.
Nhưng cách mạng đến, Từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau đó, Ichiro của hôm nào đã được gọi là Đồng chí Pak Illang, đã biết đọc, biết viết, và biết làm giấy tờ.
“Ichiro, cũng là cái anh Ichiro mà mọi người đều nghĩ là một thằng đần không có não, cũng là cái thằng Ichiro mà mọi người khinh rẻ - nghĩ thử xem - cũng chính là Ichiro đã học đọc và viết. Anh ta học tự viết tên mình, Pak Illang. Nếu đó không phải là giải phóng, tôi không biết đó là gì. Đồng chí Pak Illang, người gánh củi và làm việc như trâu như bò khi các người ăn cơm trắng, ngủ trong chăn ấm, đi học ở trường, ngồi trong nhà thờ, đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, hát thánh ca - vậy đó, anh ta cũng học và giờ anh ta biết viết, biết đọc và viết những từ như “cải cách ruộng đất” (5)
Những trường đoạn như vậy trong sách rất nhiều. Nhà văn cho phép người đọc đi theo lịch sử cá nhân để có thể hiểu vì sao họ lại chọn hành động như họ chọn.
***
Từng “con ma” trong quá khứ dẫn linh mục Yosop quay trở về tuổi thơ, khi những sự kiện lịch sử quy mô lớn quét qua làng mà ông không dám đối mặt. Khi người chị dâu bị bỏ lại ở Bắc Triều Tiên hỏi:
“Em có biết anh Ryo Yohan đã giết bao nhiêu người không? Chỉ tính trong những người chị biết - và em chắc cũng biết không chỉ có số đó - không ít hơn mười người chỉ trong làng ta.” (6) - Một người của nhà thờ, đã trở thành thầy tư tế, đã đến Mỹ, đã sống một đời lặng lẽ, lại có quá khứ mà cả hai anh em không bao giờ nói thành lời cho đến khi gặp lại những người cùng máu mủ ở quê hương đã không còn.
Người chị dâu nói trong đêm gặp lại: “Chúa, cũng từng phạm tội. Đó là điều tôi thường nghĩ. Ngài nhìn xuống địa ngục rực lửa này, và ngài im lặng. Dù vậy, gần đây chị bắt đầu nghĩ khác đi. Đã lâu lắm rồi chị không đọc Kinh Thánh - chị gần như đã quên hết cả. Nhưng Job, chị nhớ Job. Cha của chị từng kể chị nghe tất cả chuyện trong Kinh Thánh khi chị còn bé, như thể chuyện cổ tích. Chúa và ác quỷ cá cược với nhau, chị còn nhớ, họ muốn xem liệu Job có giữ lấy đức tin không. Có những thời điểm, khi ông bị cùi hủi, khi thậm chí đến Job cũng cảm thấy cay đắng với Chúa. Người ta nói con người sinh ra đã mang theo nỗi đau. Những người mà anh trai của em giết - đúng vậy, họ đều có linh hồn. Họ đâu phải Satan. Ryu Yohan cũng không phải Satan. Đức tin của anh ấy bị quặt quẹo, có vậy thôi. Chị biết thế. Chị biết rằng Chúa vô tội.”
Đoạn văn trên là diễn trình về suy tư và nhận thức của chị dâu, một đứa trẻ lớn lên trong đức tin Thiên Chúa (một “người khách” ở Hàn Quốc), cũng là đức tin của chồng cô, cha chồng cô, dòng họ cô. Cho đến ngày họ nhân danh đức tin đó, giết hết phần còn lại của ngôi làng, phần mà họ cho là những ác quỷ, đi cùng “người khách” khác: là Cộng Sản.
Vị linh mục tiếp tục chuyến đi “trừ tà” gặp lại người Cậu tên Some, em trai của mẹ. Cậu Some được rửa tội từ khi lọt lòng. Ông cũng là con trai của một linh mục thời đó. Nhưng sau khi học xong trung học, ông trở về nhà và chọn việc làm nông mà không tiếp tục học lên để làm linh mục. Khi Yosop gặp Some, ông đã hơn 85 tuổi.
Ông nói: “Những người đó, cháu biết không, cả hai phe - cậu biết họ rất rõ.” - Vì ông đã lớn lên trong trường dòng, được giáo dục “phải đối xử tốt với hàng xóm và gia đình mà ta gặp mỗi ngày. Thầy dạy chúng tôi nên làm việc để có thức ăn mà chúng tôi ăn, vì cách duy không làm mà có ăn là đặt bẫy và cướp của người khác, và đó là tội lỗi tồi tệ hơn tất cả.” (7)
Cậu Some vừa là đứa bé được làm bí tích rửa tội, vừa là Đảng viên. Ông giải thích: “Cậu có lẽ sẽ không trở thành Đảng viên nếu cuộc thảm sát mùa đông năm đó không xảy ra. Đó là thứ khiến cậu quyết định ở lại, để làm một con chiên ăn năn.”
“Nhưng họ cũng giết chúng ta, người theo Thiên Chúa.”
“Đúng rồi, như các cháu gọi họ, họ đâu phải là con chiên, đúng không?” (8)
Phần truyện Some kể có lẽ là phần phức tạp nhất trong quyển sách, bởi chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, ở ngôi làng gần vĩ tuyến 38 này, tin tức từ Pyongyang lẫn Seoul liên tục tràn về. Bắc Kinh đã tài trợ cho quân Cộng Sản. Lính Mỹ đã đổ bộ và đang tiến về mở rộng biên giới. Trong làng, những nhóm người từ nhà thờ và nhóm bần nông nhận được lựu đạn, súng trường tài trợ chuyển về từ những đường vận tải bí mật.
Tuy lính Mỹ chưa có mặt, tuy Bắc Kinh không xuất hiện, nhưng cả hai nhóm người đã trở nên liều lĩnh hơn khi biết có bàn tay hỗ trợ đang vỗ vào vai họ, khiến họ kiên quyết hơn thực hiện những nung nấu họ kìm nén bao lâu nay. Những người cộng sản giết lập tức những người trẻ theo Thiên Chúa Giáo họ gặp trên đường làng. Những người trẻ trong Hội Giới Trẻ vây kín cả làng, bắt nhốt hết phụ nữ, trẻ em vào một khu hầm tránh bom chống Nhật ngày trước. Some chứng kiến tất cả nhưng ông được tha mạng, vì là cậu của Yohan, người lãnh đạo cuộc tàn sát này.
Đến tận chương 8 - Hồi Niệm - người đọc mới thực sự thấy được đầy đủ điều gì và quá trình mà Yohan, nhân vật trung tâm của sách, đã gây ra. Đó là Yohan, cùng với vài chục thanh niên có vũ khí, đã quyết định đổ xăng vào hầm đốt chết mấy trăm dân làng, hầu hết là phụ nữ và trẻ em.
Ở cuộc thảm sát đó chưa có chân dung của “người khách” quân đội Mỹ và quân đội Trung Quốc tràn vào. Nhưng cũng ở đó, lý tưởng tôn giáo và ý thức hệ chính trị của thế giới mới lạ ngoài kia đã chi phối hoàn toàn cách những nhân vật ở ngôi làng chọn hành động giết đồng bào mình.
Nhà văn Hwang Sok-Yong viết: “Hoá ra, những bạo tàn chúng ta chịu đựng là do chính chúng ta gây ra cho nhau, chứ không phải ai khác, và cảm giác tội lỗi sâu thẳm bên trong cùng với nỗi sợ từ sự kiện này đã giúp sự thù hận điên cuồng bén rễ và lan rộng đến tận ngày nay.” - Trong bảo tàng ở Bắc Triều Tiên mà vị linh mục ghé thăm, nhà nước Bắc Triều Tiên gọi tên nó là “Bảo Tàng Tưởng Nhớ Thảm Sát của Đế Quốc Mỹ” - nhưng Hwang nhiều lần nhấn mạnh, chính những người dân được “tiêm” những “người khách” trong đầu, đã chọn thảm sát nhau chứ quân đội nước ngoài vẫn chưa đến làng họ.
Sự căm thù tàn bạo [giữa hai ý thức hệ] dường như lan ra vì mỗi người dự phần không chấp nhận được tội ác mà đồng bào mình chịu cũng là do chính đồng bào mình và mình gây ra, chứ không phải kẻ ngoại bang nào. Sự né tránh này cũng thấy rõ ở cái tên của bảo tàng: gọi tội ác được gây ra là do “Đế Quốc Mỹ” mà quên đề cập đến chính họ.
***
Tôi đã dành nhiều thời gian để đọc “Người Khách” vì cách mà nhà văn Hwang Sok-yong chọn điểm nhìn cho một cuộc thảm sát ở vĩ tuyến 38. Cách nhìn này vừa không khoan nhượng, vừa từ chối lãng mạn hoá theo một chủ thuyết nào đó [cộng sản hay Mỹ].
Khả năng suy nghĩ độc lập và sự thẳng thừng của Hwang cũng là sự thẳng thắn tôi từng gặp trong một bảo tàng tư nhân về chiến tranh Việt Nam ở San Jose (Hoa Kỳ) mà tôi được ghé thăm. Người chủ bảo tàng đặt trên bức tường cao hai khẩu súng chĩa vào nhau: một khẩu AK-47, một khẩu M-16. Ông nói hai khẩu súng đó để nhắc cả hai miền Việt Nam đã dùng vũ khí gì bắn vào nhau: đều là vũ khí do nước ngoài sản xuất, trong tay người Việt.
Nhiều người ghé thăm bảo tàng cảm thấy khó chịu trước sự sắp đặt đó, thậm chí than phiền đòi gỡ chúng xuống, gây khó dễ cho ông.
Khi đọc “Người Khách”, tôi gặp lại thái độ ông chủ bảo tàng phải đối mặt, cũng là điều mà Hwang Sok-Yong gặp phải, khi ông chỉ rõ rằng cuộc thảm sát là tự người Hàn Quốc gây ra cho nhau, bằng vũ khí và ý thức hệ của những thế lực “khách” mang đến trao vào tay họ. Hwang vào tù 5 năm ở Hàn Quốc vì những tác phẩm ông viết. Khi xuất bản “Người Khách” - Hwang đã bị giới trí thức cả Bắc Hàn và Hàn Quốc tấn công.
*** CHÚ THÍCH TRONG BÀI ***
(1) “WHEN SMALLPOX WAS first identified as a Western disease that needed to be warded off, the Korean people referred to it as “mama” or “sonnim,” the second of which translates to “guest.” With this in mind, I settled upon The Guest as a fitting title for a novel that explores the arrival and effects of Christianity and Marxism in a country where both were initially as foreign as smallpox.
As smallpox reached epidemic proportions and began sweeping across the nation, shamanic rituals called “guest exorcisms” were often performed to fight against the foreign intruder. The Guest is essentially a shamanistic exorcism designed to relieve the agony of those who survived and appease the spirits of those who were sacrificed on the altar of cultural imperialism half a century ago.”
(2)“You’re . . . so. I guess you’re involved with the Commies now.”
(3) “Do you think it likely that God will allow you to go back to North Korea?”
“It is through the grace of God that things have worked out as they have. But never mind that—Big Brother, don’t you ever think of your wife? Of Daniel?”
….
“All dead, probably. If Uncle is still alive, he may at least know where they’ve been buried. Don’t you think so?”
““I don’t know if you know this, but our family has been Christian for generations. You, too, were christened as a baby. Your father was a presbyter, and I’ve become a Protestant minister. A lot of the things we believed in conflicted with the ideology of the People’s Republic.”
“No, no, it’s not the religion that bothers me—that’s just a relic of the dark days, all that superstition and such. I don’t even care whether you were reactionaries or outright criminals—but, killing people? Why did you kill people?”
(5) “Ichiro, the same Ichiro you all thought was a brainless half-wit, the same Ichiro you talked down to—just think about it for a second—that same Ichiro learned to read and write. He learned to write his own name. Pak Illang. If that’s not what the liberation was all about, I don’t know what is. Comrade Pak Illang, who used to carry firewood and work like a cow while you people ate white rice, slept under warm blankets, learned at schools, sat in churches, read Bibles, prayed and sang hymns—well, he learned too, and now he could read and write words like land reform.”
(6) “Do you have any idea how many people Ryu Yohan killed? Just the ones I know of—and you can be sure that wasn’t all—number no less than ten in our village alone.”
(7) “He told us we should always be good to our neighbors and the family members we see every day. He said that we should always work for the food we ate, that the only alternative to working your share was laying traps to take the share of others, and that was the worst sin of all.”
(8)
“I might not have become a Party member if the massacre that took place that winter had never happened. That’s what made me decide to stay here, as a repentant Christian.”
“They slaughtered us Christians, too.”
“Well, as you people put it, they weren’t believers, were they?”
Bạn có thể đăng ký nhận bài viết mới qua email miễn phí hoặc qua kênh Telegram tôi sử dụng để thông báo có bài viết mới. Nếu bạn thấy email làm phiền, bạn có thể vào phần Setting của Substack > Notifications > Newsletter deliverly > Prefer push. để không cho thư gửi vào hộp thư bạn nữa.
Ôi, chi tiết về 2 cô bé... :(