Đọc về chiến tranh: Trong chuyến đi hiểu thế giới của mình
Sinh ra cuối thập niên 80 không có mùi súng đạn.
Tôi sinh ra ở thuỷ điện Trị An, năm 1987, một năm sau khi Việt Nam quyết định bước vào thời kỳ đổi mới.
Nơi tôi ở không có bán sữa, thiếu đường, thịt hiếm hoi đến nỗi hơn 30 năm sau tôi vẫn thèm thuồng món thịt mẹ nấu một chiều cuối năm. Tôi không biết mình sinh ra ở cái đuôi của cuộc chiến đã kết thúc 12 năm trước.
Cha tôi rất hay nói về cái đói. Cha kể bà nội gánh hai đứa em trai nhỏ, còn cha cõng một đứa em trai khác đi chạy giặc. Cả làng bỏ đi trong tiếng bom. Cha đi đào mót khoai mót lúa ngoài đồng để gom về để bà nấu cho các em trai ăn.
Cha làm cha trước khi lớn vì ông nội chết rất sớm vì bệnh lao và cha phải phụ bà nội nuôi các em. Ký ức của cha về ông nội là những ngày đạp xe trong mùa đông đi làm thợ mộc cùng ông, nghe tiếng bom nổ ngoài xa rồi cong chân đạp thật nhanh về nhà.
Mẹ tôi kể lúc 13 tuổi mẹ cầm dao đến lớp học vì đám trẻ ở trường gọi mẹ là “Tàu Lai” và đánh mẹ. Cả xóm trẻ con không chơi với mẹ mà chỉ chửi bới, ném đá vì mẹ nói tiếng Hoa và gia đình chuyển từ bên kia biên giới về Lào Cai. Ông ngoại đi sửa xe máy, xe đạp miễn phí cho cán bộ để đổi lấy chút “ân sủng” là cân thịt mang về cho các con ăn.
Không ai trong gia đình tôi có người tham chiến. Không ai trong hàng xóm tôi bị thương tật chiến tranh. Không ai sống xung quanh tôi chửi nhau là Nguỵ hay ca ngợi nhau là anh hùng. Thế giới của tôi không có mùi súng đạn, ở một vùng quê nghèo vô cùng xa xôi, chỉ có một hiệu sách mà thứ duy nhất họ bán là Đôrêmon và Dũng sĩ Hesman. Nơi đó vô can với tất cả những sợi chỉ của chiến tranh Việt Nam, thường quàng vào đối thoại mà sau này tôi nghe người ta gọi nhau là bên này hoặc bên kia.
Người đàn ông đầu tiên tôi trò chuyện về chiến tranh là một cựu chiến binh đi bộ theo đường Hồ Chí Minh vào Nam. Ông có nhiều huân chương và toà soạn muốn tôi phỏng vấn. Ban đầu, ông nói những câu khuôn mẫu như “ta đã rất dũng cảm, chịu đựng gian khổ”, “bộ đội ta rất kiên cường”… Tôi bực dọc vì những sáo ngôn vô nghĩa lặp đi lặp lại không cách gì xuyên thủng. Tôi không tưởng tượng được “dũng cảm là dũng cảm thế nào” hay “kiên cường là kiên cường ra sao”, nên ngắt lời ông: “Hồi đó rừng bác đi bộ thế nào? Có trơn ướt? Mưa rừng? bác đi bộ bao nhiêu ngày? bác có đau chân không?”
Ông “à” lên một tiếng, “ à, là cô muốn nghe mấy chuyện đó hả?” - Rồi ông dựa vào ghế, nhìn lên trần nhà và kể: Tôi mới 19 tuổi, tôi được điều động đi, có khi bùn ngập qua mắt cá chân, bước cả ngày không được vài km. Có hôm tôi đi sau mấy anh em, rẽ sang bụi cây đi tiểu, nhìn ở đó thấy có một cái võng treo, gọi các đồng chí lại, thì thấy trên võng là một bộ xương người. Người đó chắc bị sốt rét hay bị thương mà nằm lại. Mọi người đứng nhìn. Chúng tôi cũng quay về, đi tiếp. Sốt rét rừng kinh lắm.
Rồi tôi hỏi sốt rét rừng kinh ra sao, bác có bị không, bác đi như vậy thì ăn uống gì, rồi mình đi biết bao giờ mình về không. Ông nghĩ một lúc rồi bảo ông không biết tả sốt rét rừng thế nào, nó đau từ trong xương, run bần bật, nó kinh lắm… rồi ông kể có những đợt xe tải quân lương bị chặn, bị bắn phá, không có thực phẩm, đói sốt vàng mắt. Nhưng ông tin nhất định mình sẽ thắng, mình chiến đấu đuổi bọn Mỹ khỏi quê hương.
Trí nhớ của ông đặc biệt rõ nét, và ông cứ liên tục hỏi cô có muốn gặp các đồng đội của tôi không, tôi chỉ biết có chuyện của tôi thôi, các anh ấy còn khổ hơn, khổ lắm, nhưng đều đã vượt qua hết. Ông không muốn là người duy nhất được “lên báo” mà muốn cái người thích thú với thế giới đã qua này sẽ kể tiếp chuyện của những người khác, với những trải nghiệm khác mà ông không có, về một thế giới đang ngày càng xa lạ, nơi những đứa trẻ chúng tôi không thể tưởng tượng về chuyến đi bộ hàng ngàn km trong rừng mà ông đã đi. Ông tin rằng nghĩa vụ tuyên truyền cho giới trẻ hiểu về chiến tranh là phần công việc ông phải làm, nhưng lại ngần ngại với chuyện bản thân toang hoang khoe về chiến tích cá nhân. Khác với rất nhiều chỉ huy sau này tôi gặp, ông muốn đồng đội được nhắc đến, được lên báo, được kể chuyện của họ. Có thể hôm đó ông nhìn tôi như một con bồ câu đưa tin, rất hi vọng nó sẽ đưa được nhiều câu chuyện ra ngoài thế giới ngày càng xa lạ với họ.
Sau đó vài năm tôi gặp một người khác. Bà ngồi ngoài hiên nhà kể chuyện khi giải phóng tới, cha mẹ bà và ba đứa em bị đẩy ra khỏi căn nhà của họ ở ngay Quận 1 bây giờ. Cha của bà bị bắt vô trại cải tạo, còn mẹ con bà được “kêu gọi” đi lên Tây Nguyên làm kinh tế mới. Một đứa em của bà bệnh nặng, nhưng họ ở quá sâu trong rừng, quá nghèo, đứa em chết mà không được đến bệnh viện. Khi cha bà trở về, ông bệnh và chết một năm sau đó. Cha bà trước đó làm nhân viên nhà nước, mẹ bà từ một phụ nữ ở nhà chăm sóc con cái đã trở thành người gánh vác cả gia đình khi ông đi tù và chết.
Bà bảo giải phóng đã biến mẹ con bà thành những người cùng khổ. Bà có một sự nghiệp tạm gọi là ổn định, và quay về Sài Gòn sống, thỉnh thoảng bà vẫn đi ngang qua ngôi nhà cả gia đình bị đẩy ra. Sự giận dữ in trong từng câu nói của bà, sự giận dữ ghìm nén, sự giận dữ không hiểu vì sao cả gia đình mình trở thành nạn nhân trong khi không hề gây tội ác như người ta kể trên báo, truyền hình.
Niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp giải phóng của ông cựu chiến binh và sự cay đắng trong ngày giải phóng của bà trở thành hai thực thể xung đột trong đầu tôi, khi tôi khi cố gắng tự hiểu cuộc chiến từ điểm nhìn của mình. Sự gò ép của trắng-đen/đúng -sai rối bời, và ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi tôi phải nghe hàng trăm câu chuyện kế tiếp.
Mỗi người kể thường khăng khăng sự thật của họ là đúng đắn nhất. Khoảng 10 năm đầu trong công việc của mình, tôi gặp sự thuyết phục không ngừng của tất cả các bên tham chiến: “Em không được tin bọn cộng sản” hoặc “Bọn cờ vàng phản quốc Cali đó bỏ chạy thì làm sao xứng có tổ quốc?” - Sự quả quyết giành lấy chính nghĩa của tất cả các đối thoại này khiến tôi ngày càng bất tín với bất kể dạng tô vẽ, thần thánh hoá anh hùng chống Mỹ, thần tượng hoá những chân dung lộng lẫy của Sài Gòn, mơ màng hoá những quá vãng mất mát không rõ thực hư.
Bộ não đơn giản của tôi cố gắng diễn dịch những điều mình nghe kể thành là từ A mà có hệ quả B, từ F mới đến G. Phải có nguyên nhân mới ra hậu quả. Không thể nào mọi thứ tự mọc tự vỡ tự huỷ hoại từ thinh không.
Nhưng phần lớn thông tin (báo chí, bài viết, mạng xã hội, youtube) không cho tôi câu trả lời. Chúng đều có mục đích biến tôi thành kẻ hung hãn hơn để bảo vệ một phe, tấn công phe còn lại. Chúng vận hành giống hàng trăm người kể chuyện tôi đã gặp, ép tôi tin vào bên này, phủ nhận bên kia.
Tôi ra một quyết định với bản thân: Từ chối chọn phe, từ chối chọn diễn ngôn của bất cứ phe nào.
Tôi mặc định mình phải đối đầu với vô số những unreliable narrator (những người kể chuyện không đáng tin cậy - một thủ thuật thường dùng trong tiểu thuyết) và mình không nên cưỡng cầu đi tìm một sự thuật rõ nét và duy nhất nữa. Thay vì vậy, tôi dọn ra vài mục tiêu để hiểu cuộc chiến đã diễn ra trước sự tồn tại của mình:
Tội ác đã hình thành và đi theo con đường thế nào ở cấp độ cá nhân?
Người anh hùng: chân dung của họ và hình ảnh của họ được nhận thức, nung nấu và tái chế ra sao trong ký ức cộng đồng?
Những người vô danh: Họ xuất hiện ở vị trí nào trong khoảnh khắc mang tính dấu ấn? Và khoảnh khắc đó tạo ra bước ngoặt ra sao với họ?
Nhân tính: Nhân tính nên được gọi tên ở đâu trong bức tranh hoàn toàn đẫm máu của chiến tranh.
Tôi tìm đọc từ những không gian văn học xa hơn, không liên quan đến mình, từ đó chọn mẫu để đối sánh và suy nghĩ các tình huống hoặc hoàn cảnh lịch sử gần giống nhau. Phương thức này hòng dẹp bỏ các quả quyết tôi vẫn được cho ăn bao năm qua trong cách kể chuyện quen thuộc và cũng để dẹp bỏ định kiến của tôi (đã kịp hình thành) khi lớn lên trong không gian đó.
Tại sao tôi phải dày vò bản thân làm điều này để làm gì?
Nếu không thể hiểu đúng đắn chân dung của những điều đã xảy ra trước mình, ta thường có xu hướng hành động và hiểu sai về những hiện thực trước mặt. Nếu không hiểu nhiều góc cạnh của quá khứ, ta thường rơi vào định kiến khi cần phải ra quyết định trước những biến động của tương lai. Khi hiện thực của thế giới ở quy mô toàn cầu ngày càng gần với mỗi cá nhân, đôi khi ra quyết định đúng hay sai sẽ ảnh hưởng đến số phận của chính mình.
Tôi không coi việc tìm hiểu này này vì mục tiêu cao cả nào, mà vì bản thân cần xác định tâm thế trong hành động tương lai và tính đến những hệ quả có thực từ quá khứ không hề bốc hơi biến mất. Không hiểu cuộc chiến tranh đã kết thúc 50 năm trước có thể khiến tôi hăm hở lại vào vòng xoáy của chủ nghĩa dân tộc, nương theo dòng chảy đã cuốn và tiêu diệt những người vô tội khác.
Không hiểu cuộc chiến tranh đã kết thúc 50 năm trước, cũng khiến tôi không đoán định được sự khó lường của đám đông khi những biến động ập tới. Không hiểu những vết hằn của thời điểm đó, cũng khiến những đối thoại về hiện tại, về cơ thể, về tự do, tương lai… trở nên nông cạn và không nhìn thấy những dây nhợ quấn lấy và làm rối cách tôi hiểu về thế giới.
Có một lần, tôi đến thăm một gia đình Hàn Quốc có một bà mẹ và hai cô con gái. Bà mẹ cỡ tuổi bà nội tôi, nghĩa là lớn lên trong giai đoạn chiến tranh Triều Tiên. Một người con gái của bà chơi với chúng tôi. Cô nói mẹ của cô có thể sẽ hoảng sợ nếu hôm nào đó trong tủ lạnh hết đồ ăn mà cô bận quên chưa đi chợ. Lúc đó mẹ cô chen vào: “Làm sao mọi người hiểu được cảm giác không có đồ ăn suốt nhiều ngày liền, chỉ biết ngủ trong mùa đông, sợ có người ập vào giết cả nhà.” - Câu nói của bà khiến tôi hiểu sự lo sợ thiếu thực phẩm của bà xuất phát từ nỗi sợ có thật. Sự căng thẳng đó truyền cho người bạn của tôi. Chị rất cố gắng đọc để hiểu về những âu lo gần như vô căn cứ đó, khi họ sống ở Mỹ, trong một xã hội dư thừa thực phẩm. Đó là “di sản” chiến tranh Triều Tiên để lại cho nhà chị. Chị cũng giống tôi, không hề trải qua chút chiến tranh nào.
Hoặc những nghiên cứu sau này tôi đọc về cộng đồng người Khmer ở Long Beach California. Một cộng đồng cực nhỏ sống sót sau nạn diệt chủng. Những người Khmer thoát khỏi cái chết nhưng không thực sự thoát khỏi nanh vuốt của quá khứ. Trẻ em lớn lên bị các vấn đề về tâm lý nhiều. Ở giai đoạn đầu, những người sống sót không thực sự còn khả năng lao động, luôn sợ bị trả đũa, giết thình lình. Sự căng thẳng này cũng hoá thành bạo lực gia đình và tình trạng nghiện rượu và ma tuý rất cao ở giai đoạn đầu cộng đồng hình thành ở nơi rất xa chiến tranh.
Vì những gặp gỡ và quan sát này, tôi nhận thức rằng hiểu nhiều mặt về cuộc chiến có ảnh hưởng tới sự hình thành bản thân và cộng đồng là điều tôi phải làm. Tôi không muốn trở thành nạn nhân kế tiếp của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, không muốn tin vào những diễn ngôn thù địch được cài cắm trong các hình thức kể chuyện, và càng không muốn mình sẽ tiếp tay cho tương lai thù địch mới mẻ.
Trong những bài viết kế tiếp, tôi sẽ nói về cách một số tác phẩm văn học giúp tôi hình thành những giác độ mới trong nhận thức chiến tranh. Nếu bạn muốn chia sẻ hoặc đặt câu hỏi, xin hãy để lại comment bên dưới. Tôi sẽ tìm hiểu hoặc suy nghĩ trong khả năng của mình để trao đổi về vấn đề rõ hơn.
Bạn có thể đăng ký nhận bài viết mới qua email miễn phí hoặc qua kênh Telegram tôi sử dụng để thông báo có bài viết mới. Nếu bạn thấy email làm phiền, bạn có thể vào phần Setting của Substack > Notifications > Newsletter deliverly > Prefer push. để không cho thư gửi vào hộp thư bạn nữa.
Khải Đơn quan tâm, Khải Đơn đặt ra những câu hỏi rất hay. Khải Đơn rồi sẽ đi về đâu? Mọi sự, cuối cùng vẫn phải quay về mình. Chiến Tranh ảnh hưởng tới mình thế nào, ngay bây giờ, ngay lúc này? Cái gì đang ảnh hưởng tới từng bữa cơm, từng con cá, lá rau...? Những lời đả đảo chẳng cản người Việt ngoài nước trở về ngày càng đông. Tương tự, những lời có cánh cũng chẳng thể giúp các chợ truyền thống không đóng cửa.