Đọc về chiến tranh: Đại Tướng của Đội Quân Người Chết
Ở xứ sở mà đại tướng đi tìm đồng đội: trời luôn mờ mịt trong mây xám, đất lạnh căm đóng băng và những người im lặng lướt qua.
Bài viết nằm trong chuỗi bài “Đọc về chiến tranh” tôi thỉnh thoảng viết, vì sở thích cá nhân, cố gắng hiểu về lịch sử xung đột diễn ra ở nhiều nơi qua các góc độ khác nhau, và nhìn về cuộc chiến từng xảy ra ở Việt Nam, như một phương pháp khiến tôi liên tục đặt câu hỏi chất vấn về tính có lý và sự vô lý của xung đột.
“The General Of The Dead Army” [Đại tướng của Đội quân Người Chết] do nhà văn người Albania tên Ismail Kadare viết.
Bối cảnh: Tác phẩm chọn thời gian sau Chiến tranh thế giới II, một đại tướng quân đội người Ý được lệnh đến Albania để đi truy tập hài cốt tử sĩ chết trận trên chiến trường Albania cũ. Năm 1939, Ý xâm lược Albania vào giai đoạn đầu Thế Chiến II, và Albania nhanh chóng thất thủ, chịu sự kiểm soát của Ý. Trong chiến tranh, Ý từng sử dụng lên đến 100 ngàn quân ở Albania, trong khi quân đội Albania chỉ có 15 ngàn người ít ỏi. Albania thất thủ chỉ sau 5 ngày, trở thành thuộc địa của Ý đến cuối thế chiến, khi khối Phát Xít thua trận toàn bộ.
Tác phẩm kể về hành trình của đại tướng đi tìm đồng đội.
“Đại tướng nhắc đến niềm tự hào nhân loại luôn dành tưởng nhớ khi chôn cất các chiến binh. Ông nhắc đến người Hy Lạp và người Trojan, đồng ngừng bắn chỉ vì lý do đảm bảo tử sĩ của hai bên được an táng với đầy đủ nghi thức mà họ xứng đáng. Đại tướng nói rõ ông tràn đầy tự hào với sứ mệnh mang theo. Đó là nghĩa vụ thiêng liêng, gian khổ, là nhiệm vụ ông nguyện hoàn thành. Hàng ngàn bà mẹ đang mong ngóng tin con. Họ đã chờ đợi hai mươi năm qua. Thật sự niềm mong mỏi của họ đã thay đổi phần nào. Họ không còn chờ đợi con mình sống sót trở về nữa. Nhưng điều đó đâu có nghĩa là không thể kỳ vọng đưa người chết trở về đúng không? Nghĩa vụ này giờ là của ông, đưa thi hài của những đứa con trở về bên mẹ, những đứa con mà lũ đại tướng ngu dốt không đủ khôn ngoan chỉ đạo chúng đàng hoàng trên chiến trường. Ông tự hào, và ông dự định sẽ làm hết sức mình để không làm những người mẹ thất vọng.” (1)
Ismail Kadare viết câu đơn giản, chậm rãi, câu không giàu cảm xúc, như kiểu nhật ký, ghi lại cách một người trải qua hàng ngày của họ khi họ đang làm một nhiệm vụ. Vị đại tướng trong tập truyện cũng là người đơn điệu về cảm xúc. Ông ta nhận nhiệm vụ, có nhiều người dưới quyền, đi cùng một linh mục (cũng là cựu binh), và chỉ đạo các cuộc đào bới thi thể tử sĩ trên chiến trường xa lạ. Lúc này Albania khá hợp tác vì mục đích nhân đạo nên thường có người địa phương chỉ dẫn, phiên dịch và kết nối cho họ tìm đúng chỗ có hài cốt.
Đại tướng thường ở trong khách sạn 5 sao, có người chuẩn bị các bữa ăn, uống cognac lúc trời lạnh hay khi nghỉ ngơi. Đại tướng như đang trong một chuyến du lịch dài ngày. Ông có lẽ đã có mặt trong cuộc chiến tranh, hoặc ít nhất ở trong hàng ngũ binh lính Phát Xít Ý 20 năm trước.
Nhưng ông không tham chiến ở chiến trường Albania, không biết gì về Albania cả. Lăng kính của ông vừa có sự mềm mỏng của người cảm thông với người đã chết, vừa nông cạn với sự bày biện đầy mâu thuẫn của những vùng quê Albania va vào ông. Trải nghiệm của ông thường đến từ chuyện nghe người khác kể. Các cựu binh có tìm đến ông kể chuyện, như cách giúp ông tìm lại đồng đội họ.
Trong buổi đầu tiên đội khai quật đào bới, ông đứng cạnh nhìn:
“Vậy đấy, đây, đất ở nước ngoài, ông thầm nói với bản thân. Cũng là bùn đen hệt như bất cứ chốn nào, cũng là đá, là rễ cây, là hơi ẩm. Đất là đất như bất cứ nơi đâu. Nhưng - vẫn là đất lạ.” (2)
Khi đứng nhìn đội kkhai quật, ông vừa háo hức muốn được “rút bản danh sách ra và bắt đầu gạch chéo tên từng người một - mỗi gạch chéo là tìm thấy một tử sĩ.” (3)
Rồi đất dâng lên cao bên hố, những hồ nghi chấn động tâm can ập tới trong ông:
“Nếu họ không tìm thấy gì dưới đó thì sao? Nếu bản đồ vẽ sai và họ buộc phải đào hai, ba, 10 hố thì sao? Chỉ để tìm một thi hài! “Nếu ta không tìm thấy gì thì sao?”, đại tướng hỏi linh mục.
“Ta bảo họ đào chỗ khác. Ta trả tiền họ gấp đôi nếu cần.”
“Đây không phải chuyện tiền nong. Quan trọng nhất là tìm được tất cả khi hài trong danh sách.”
“Ta sẽ tìm ra họ. Ta không thể không tìm ra.” (3)
Đoạn đối thoại cho thấy căng thẳng lấm mùi chính trị, danh dự, vừa can dự cá nhân dần trùm lên ông, hệt như ở xứ sở mà ông đang đứng: trời luôn mờ mịt trong mây xám, mưa ập tới bất cứ lúc nào, sương giá lầm lũi đi vào làng, đất lạnh căm đóng băng.
Đây là xứ sở những người lính Ý đã bỏ thây trong cuộc chiến mà họ từng chiến thắng (hay chiến bại?) và quét qua Albania. Sự khổ sở của cuộc đào bới bỗng nhiên làm người đọc nhận ra sự khổ sở thực sự của “người thắng cuộc”, tinh thần rệu rã trong mùa mưa mướt mát, lạnh căm, trong sương giá, trên khoảng đất mênh mông, trống rỗng. Và rồi họ bỏ xác ở đây.
Xác của họ, hoá ra “những thi thể chẳng có gì ấn tượng. Trộn lẫn với đất tơi, họ như nhiều mảnh gỗ chết. Vẩn quanh là mùi đất vừa đào lộn lên.” (4)
Thỉnh thoảng giữa những xác chết là huân chương hoặc huy hiệu, là vật thể với hình Đức Mẹ. Huy hiệu vừa đại diện cho công lao của người đã chết, vừa mang niềm tin tôn giáo ôm ghì lấy họ. Nhưng sự thật thô lỗ là, quân đội phát mớ huy hiệu đó cho họ để khi tìm xác nhìn huân chương là biết lính Ý. Ký ức của đại tướng lấm lem vào hiện trạng của những thi hài, như thể ông đối diện với quá khứ mà một trong những cái xác có thể là ông. Ông - anh lính quèn lúc trẻ - cũng cay đắng khi nhận ra vì sao họ trao cho mình huy hiệu đó.
Nhưng rồi khi cuộc tìm kiếm kéo dài đi mãi, 20 ngày, 30 ngày… từ mùa thu qua mùa đông, đại tướng dần “nhập vai” vào thế giới của những thi thể ông tìm kiếm. Ông tìm được nhật ký của họ, trò chuyện với ngôi làng người Albania, trò chuyện với những người bên kia chiến tuyến biết họ chôn xác “bên thắng cuộc” ở đâu. Câu chuyện từ nhật ký hoá thân thành bộ phim từng mảnh ghép lại, tái hiện cuộc chiến mà đại tướng và nước Ý của ông đang tự hào: đi tìm thi hài liệt sĩ - hay đi dựng lại tội ác mà họ gây ra?
“Chiến tranh ở đây không giống bất kỳ cuộc chiến nào,” đại tướng nói tiếp. “Không có tiền phương nào cả, không có trực tiếp giao chiến. Chiến tranh ngấm dần vào cả đất nước này, như loài sâu sinh sôi làm tổ trong từng tế bào của quốc gia này. Đó là lý do vì sao nó khác với chiến tranh ở nơi khác.” (5)
Nhận thức của đại tướng về cái chết, hoàn cảnh trước khi chết của những người lính ông đang tìm kiếm, và cả của “kẻ thù” - người Albania - chậm chạp thay đổi qua nhiều tháng ngày vật lộn giữa những cánh đồng đào bới.
Đi cùng ông là một linh mục, người thường đưa ra những nhận định kiểu như tỏ ra am hiểu về Albania, những nhận định chung chung về một tộc người/quốc gia, như “Người Albania như loài động vật sợ nước. Chúng thích bám lấy đá và núi. Chúng thấy an toàn ở đó.”(6) - Qua những nhận định kiểu vậy, người đọc nhận ra cả đại tướng và linh mục dường như chưa bao giờ hiểu kẻ thù (đã từng) của họ. Họ chỉ biết đến “chúng” qua cái tên mơ hồ của một dân tộc đã chôn vùi hàng ngàn lính Ý dưới mồ. Sự chung chung vô danh.
Thỉnh thoảng những sự kiện hiện rõ nét hơn, như thể khi ta xem phim tài liệu chiến tranh, thấy đám người hàng ngàn người chạy loạn, ta không thực sự biết chiến tranh là gì. Nhưng khi câu chuyện thu hẹp khung hình, cận cảnh sát lại từng chân dung, người ta bắt đầu nhìn rõ nét hơn. Như câu chuyện đại tướng vô tình nghe được khi tìm đến một nhà thờ, để xin đào hài cốt vài lính Ý chôn ở đây. Có một người lính được chôn tách biệt khỏi một nhóm lính khác. Đại tướng hỏi vì sao mộ lại được chôn tách biệt vậy. Vị thầy tu ở nhà thờ trả lời: “Đó là vì người lính này bị giết trong hoàn cảnh cực kỳ phi thường”…. “bởi một người tên là Nik Martini.”
Sau đó nhà sư bắt đầu kể câu chuyện về người tên Nik Martini, hôm đó thầy tu thấy anh ta đi xuống núi: “Khi tôi thấy anh ta bước nhanh nhẹn như thế, dù có khẩu súng vắt trên vai, tôi vẫn không nghĩ anh ta sẽ bắn gì cả. Dân trên núi lúc nào cũng đi như thế, chẳng ai đoán được kiểu họ đi mua sắm ở chợ gần đó hay đi giết người.” (7)
Câu chuyện tiếp diễn gần như kiểu “đi chợ”, Nik định trèo lên tháp chuông bắn tỉa xuống, nhưng thầy tu bảo xuống ngay không được bắn từ Nhà Chúa. Vậy là Nik trèo xuống, leo lên đồi, nằm đó bắn tỉa. Nik cứ bắn tỉa vào bờ biển mà quân Ý đang đóng, cho đến khi đạn súng cối nhắm ngay đến chỗ Nik.
“Và đó là lúc hắn bị giết?”- đại tướng và vị linh mục tò mò.
“Không, ban đầu tụi tôi cũng nghĩ thế khi không nghe tiếng súng của anh ta nữa. Nhưng sau đó, anh ta lại xuất hiện, ở xa hơn, trên đỉnh mỏm đá khác, và đó là khi gã kém may mắn này bị hạ thủ,” - thầy tu chỉ vào chiến hào.
Sau đó Nik Martini hết đạn. Cả một xe tải đầy lính Ý vẫn trên đường từ thủ đô vận chuyển tới làng biển. Nik Martini hú lên trong đau xót, và quân Ý biết anh ta ở đâu, vây bắt anh, xé xác anh, giết anh. Nik Martini không còn xác.
Đây là một chuyện kể đảo vị trí đầy châm biếm. Từ vị trí đại tướng đi tìm những liệt sĩ thiêng liêng của ông, với quốc gia của ông, ông tìm được mồ chôn binh lính của mình, nhưng chuyện ông biết được lại là chuyện kể về một người Albania dũng cảm chiến đấu. Cái mộ vô danh của người lính Ý, cố ý chôn ở vị trí kỳ quặc, chỉ để khêu động sự tò mò của người sống, để câu chuyện về Nik Martini được kể lại - vô số lần. Xác anh ta không còn. Tên anh ta đi vào âm nhạc, thơ ca, ký ức. Cái chết của kẻ thù đánh dấu sự mất đi của anh ta - khi đang bảo vệ quê hương - và thất bại.
Đại tướng phải đối mặt với rất nhiều tình huống như vậy nhiều tháng tìm kiếm. Chính nghĩa của quê hương ông dần lung lay. Cách diễn đạt nhiệm vụ thiêng liêng đầu tập sách của ông dần mờ nhạt, thay vào đó là những câu chuyện giao tranh thăm thẳm, kinh hoàng, diễn ra ở quy mô thường ngày (như kiểu Nik Martini đi chợ hay đi giết người không ai biết).
Những người Albania vừa nghèo khổ, vừa ít ỏi, vừa sống giữa thiên nhiên mênh mông tàn khốc đã bộc lộ sự kiên cường quyết bảo vệ quê hương của họ đến cùng. Đại tướng đã vinh hạnh (hay bị nguyền rủa) nhìn thấy chân dung của chiến tranh dưới lăng kính kẻ thù.
Ông cũng thình lình nhận ra những vị anh hùng mình đang đi đào bới đã có một quá khứ khốn khổ, tuyệt vọng trên chiến trường mùa đông, đã tàn bạo ra sao với những ngôi làng Albania không có khả năng tự vệ, đã tự rơi vào cái chết trong sự khốn cùng mà lịch sử nghiền nát họ dưới tham vọng viễn chinh của nhà nước Mussolini.
Mỗi chương sách, tôi theo đại tướng trong nhật ký kiếm tìm đồng đội,hoá ra là một cuộc hiểu rõ hơn vì sao đồng đội của ông lại tham chiến ở nước ngoài, hoá ra đồng đội đã làm gì ở “nước ngoài”, hoá ra họ đã mang theo những kỷ niệm, cảm xúc, những ước vọng gia đình thân yêu, và rơi rớt từng phần ở nơi không ai hiểu tiếng nói của họ, không có ngày về.
Đại tướng không hoà giải được tâm thức khi nhìn phía bên kia “nước ngoài” - nhiều phần người đọc có thể tìm thấy trong đối thoại của ông với linh mục. Linh mục thường tự nhấn mạnh ông là người tôn giáo, ông không tin vào việc giết chóc, nhưng qua đối thoại, ta nhận ra một nghịch đảo khác dần hình thành trên trục của truyện: đại tướng - một nhân vật có chiến tuyến và điểm đứng chính trị rõ ràng, ngày càng lung lay khi nhận thức nhân bản của ông dần đầy đủ về chân dung những đồng đội chết trận. Còn linh mục, người mang theo vừa lý tưởng tôn giáo, vừa kiến thức kinh viện về “chúng” [Albania] dường như không có khả năng khiến các lý thuyết của ông tiếp tục thuyết phục như cách ông thuyết phục con chiên.
Các lý tưởng rồi sẽ sụp đổ khi đại tướng thấy chân dung từng con người. Các lý thuyết được khái quát hoá trở nên sai lầm và suy tàn khi áp lên trục bi kịch của mỗi người lính. Họ đối diện với khung cảnh chiến trường hoàn toàn khác biệt trong mỗi mùa khắc nghiệt, trong quan hệ phức tạp và nhân bản với những cộng đồng địa phương mà họ tấn công.
Trong quá trình truy tập hài cốt đồng đội, đại tướng cùng học lại về cuộc chiến cả mà ông và người đọc đều chưa từng trải qua. Sự sống sượng của các lý thuyết anh hùng ca khi lắp vào những buổi chiều cô đơn trên đồng trống đầy sương giá, mây mù phủ kín, chỉ có người công nhân cặm cụi đào hố xác. Vậy cuộc chiến và toàn bộ bản anh hùng ca của chúng là gì? - Vậy ý nghĩa mà đại tướng nghe trên TV, xem trên báo đài, ca ngợi chuyến công tác của ông là gì?
Thật lạ lùng, cách khán giả tô vẽ và kiếm lợi từ chuyện kể chiến tranh thường khác hoàn toàn với chiến tranh xảy ra ở cận cảnh.
Thật lạ lùng, cách chiến tranh được khoác lên những tấm áo bào lộng lẫy lại ngược hẳn với khung cảnh quặt quẹo và kỳ dị của những chiến trường đã từng - nơi người lính tham chiến không có vị trí nào phù hợp ngoài vai trò của kẻ huỷ diệt hay kẻ bị tiêu diệt. Sự trần trụi này thường bị che giấu trong những tuyên ngôn lộng lẫy chủ nghĩa anh hùng, thứ không đo đếm cùng đơn vị với những gì thân thể, tri giác con người trải qua.
Như đoạn ký ức ngắn của đại tướng, có anh lính kể rằng bạn anh cầu xin anh, nếu cậu ta chết, hãy đào hố thật sâu chôn cậu ta, đừng để chó hoang, sói rừng tìm thấy. Lời ước nguyện của người lính chỉ có vậy.
Ismail Kadare: trong cả sự nghiệp văn học đồ sộ, chọn độc lập và kiên định trước tất cả các chính thể và dòng lý tưởng ưa thích hoặc căm ghét ông, đã viết về chiến tranh trong giai điệu chậm rãi, đơn giản, kéo dài như vậy.
==== CHÚ THÍCH ======
Các đoạn in nghiêng trích từ bản dịch sang tiếng Anh của Derek Coltman từ bản dịh tiếng Pháp của Jusuf Vrioni:
(1) “The general alluded to the pride that humanity has always taken in the ceremonial interment of its warriors. He instanced the Greeks and “Trojans, who concluded truces solely for the purpose of ensuring that their dead received the funeral rites that were their due. The general made it clear that he was filled with a great zeal for his mission. It was a pious task, an arduous task, and one that he intended to carry out successfully. Thousands of mothers were waiting for their sons. They had been waiting for twenty years now. It was true that their expectation had altered somewhat in its nature. They were no longer expecting living sons to come home to them. But is it not equally possible to anticipate the return of the dead? It had fallen to him, the task of bringing back to all those grieving mothers the remains of the children those idiot generals had lacked the wit to lead properly into battle. He was proud of the fact, and he intended to do everything in his power not to disappoint them.”
(2) “So there it is, that foreign soil, he said to himself. The same black mud as everywhere else, the same stones, the same roots, the same vapour. Earth like earth anywhere. And yet - foreign.
(3) “He was impatient to see the other workmen begin digging too. Then he would be able to take out his lists and start covering them with little crosses - one little cross for every soldier found.
Now the pick was striking the earth with a muffled sound that seemed to spring from the very bowels of the earth. The general suddenly felt alarm run through every fibre of his being. What if they didn’t find anything down there? What if the maps were wrong and they were obliged to dig in two, three, ten different spots? Just to find a single soldier! “What if we don’t find anything?” he said to the priest.
“We tell them to dig somewhere else. We can pay them double if necessary.”
“It’s not a matter of money. The only thing that counts is to find all the bodies on our lists.”
“We’ll find them. We can’t afford not to.”
(4)“There was nothing very impressive in these remains. Mixed with the crumbling soil they looked like pieces of dead wood. All around there hung the aroma of the freshly turned earth.”
(5) “The war here wasn’t like other wars,” the general went on. “There were no proper fronts, no direct confrontations. The war simply insinuated itself all over the country, like a breeding worm burrowing into the country’s every cell. That’s why it was so different from the sort of war that’s fought elsewhere.”
(6) “Yes, it’s true,” the priest said. “The Albanians are like animals that are afraid of water. They like clinging to rocks and mountains. They feel secure then.”
(7) “When I saw him walking with such a brisk step, even though he had a rifle over his shoulder, it never occurred to me he was going to shoot. The mountain folk always go about like that, and one can never guess from their demeanour whether they’re off to do some shopping in the local market or commit murder.”
Bạn có thể đăng ký nhận bài viết mới qua email miễn phí hoặc qua kênh Telegram tôi sử dụng để thông báo có bài viết mới. Tôi đã tắt chức năng Paid Subscription của Substack, những độc giả đã đăng ký trả phí cả năm sẽ nhận lại được refund phần còn lại của năm vào thẻ mà bạn dùng để chi trả. Từ nay bài viết trên Substack của tôi luôn mở hoàn toàn miễn phí. Cảm ơn sự ủng hộ của bạn trong suốt thời gian qua. Bạn vẫn có thể mời tôi cà phê nếu thích một bài viết nào đó :D



